Ngày xưa, ở một bản làng nhỏ nằm khuất dưới dãy núi xa xôi, có hai anh em sống cùng mẹ trong một ngôi nhà sàn cũ kỹ. Gia đình họ nghèo khổ, phải tự lực cánh sinh để tồn tại. Dù là hai anh em, nhưng tính cách của họ khác nhau như ngày và đêm. Người anh thì tham lam, nóng nảy, trong khi người em lại thật thà, hiền lành nhưng có phần vụng dại.

Mặc dù chung một mẹ, nhưng hai anh em chẳng hề thân thiết. Họ không những ngủ quay lưng với nhau mà còn nấu nồi cơm riêng và đốt bếp lửa riêng, nên gia cảnh ngày càng thêm khó khăn. Mỗi lần người anh đi làm ăn nơi xa về, anh ta thường lẻn đến nhà em khi em vắng mặt, quơ vét hết của cải đem về góc sàn của mình. Khi người em trở về và phát hiện nhà mình bị mất trộm, chỉ biết tủi thân ngồi khóc. Có lúc người em hỏi anh có giấu đồ của mình không, nhưng chỉ nhận lại những lời xỉ vả thậm tệ. Mỗi lần mất của, người em chỉ còn biết mang kèn khui ra thổi những điệu buồn, gửi gắm nỗi lòng cay cực của mình theo tiếng gió.

Một hôm, Giàng – vị thần tối cao trên trời – trong lúc dạo chơi giữa các tầng mây, chợt nghe thấy tiếng kèn buồn đến lạ. Ngài bảo con gái xuống trần gian để xem ai đang thổi kèn ấy. Người con gái của Giàng, theo vầng mây trắng, sà xuống bản có tiếng kèn. Khi hạ chân chạm đất, nàng biến thành một cô gái miền rừng xinh đẹp, rồi đến dưới thang sàn của người em út và gọi:

– Người con trai ơi! Cho tôi lên sàn xin tí lửa châm thuốc!

Người em út, thấy một cô gái xinh đẹp đến gọi mình, sợ quá, dụi tắt lửa và trả lời:

– Nhà tôi không còn mẹ, không có chị gái, em gái, tôi không tiếp khách con gái.

Nhưng mặc cho người em út từ chối, cô gái vẫn thoăn thoắt leo lên sàn và ngồi bên bếp lửa. Người em út không xua được cô gái lạ, đành lén trốn ra khỏi nhà. Khi biết người em út đã đi xa, cô gái lục lọi hết mọi xó xỉnh trong nhà nhưng chẳng thấy gì ngoài một chiếc khố rách, vài bắp ngô ăn dở và một chiếc nồi sứt mẻ.

Tối ấy, cô trở về trời và bảo với Giàng:

– Cha ơi! Nhà người con trai ấy chỉ toàn tro và bồ hóng. Của cải trong nhà anh ấy chỉ có một con gà trống ăn không cứng một bọc diều. Anh ấy sống một mình, buồn hơn cả tiếng kèn khui.

Giàng nghe xong, trầm ngâm giây lát rồi hỏi con gái:

– Con có cách gì giúp người con trai ấy được không?

Cô gái liền trả lời:

– Con chỉ có thể mang tiếng cười về thay cho điệu buồn kèn khui của anh ấy.

Giàng gật đầu đồng ý. Sáng hôm sau, người con gái của Giàng lại theo vầng mây sớm xuống trần gian. Cô đến nhà lúc người em út đi làm vắng, lo quét dọn nhà cửa, xách nước và nướng chín ngô đặt lên sàn bếp. Nghe tiếng động ở chân sàn, cô gái vội náu mình vào một góc tối.

Người em út về thấy nhà cửa sạch sẽ, nước đầy ắp, ngô đã được nướng chín thơm lừng, liền lạ lắm. Anh ta tìm kiếm khắp nhà và bắt gặp đôi mắt sáng của cô gái. Anh sợ hãi hỏi:

– Cớ sao cô lại đến nấp trong xó tối nhà tôi?

Cô gái bước ra chỗ sáng, vẻ đẹp và nụ cười rạng rỡ của nàng khiến người con trai út lóa mắt và càng thêm run sợ.

– Anh sợ tôi à? Nào tôi có gì đáng sợ đâu? Cha tôi thấy anh cực khổ nên bảo tôi đến giúp anh! – Cô gái nói.

Người con trai trả lời:

– Tôi không có của cải để cô ăn.

Cô gái cười và đáp:

– Tôi sẽ đi đào củ, hái trái. Chúng ta cùng ăn chung.

Người con trai vẫn phân vân:

– Tôi làm việc nhiều mùa rẫy, nhiều tuần trăng tròn, trăng lặn vẫn không có của cải để đổi lấy một chiếc khố lành.

Cô gái khẳng định:

– Cha mẹ bảo tôi về cùng anh làm vợ, làm chồng.

Người con trai hoảng hốt, lắc đầu:

– Không được đâu! Tôi không có tiền, không có bạc nén, nồi đồng, bò, lợn để làm lễ cưới.

Cô gái cương quyết:

– Cha mẹ không đòi của bỏ, không hỏi của cải để làm lễ cưới.

Cuối cùng, sau một hồi từ chối không được, người con trai nhận lời làm chồng cô gái.

Ngày hôm sau, cô gái nói với chồng:

– Vợ chồng ta lên chỗ cha mẹ em xin của cải để làm lễ Khơi. Anh nắm tay em mà đi.

Người em út nắm tay vợ và cảm thấy mình như đang bay bổng lên không trung. Họ bay mãi đến vùng trời xa xôi, nơi ở của Giàng. Giàng mừng rỡ đón con gái và con rể vào bản. Nhưng người em út vẫn lo lắng bảo:

– Cha ơi! Con chưa có của cải làm lễ Khơi nên không dám lên nhà.

Giàng hiểu và cho vợ chồng nghỉ lại ở chân sàn. Một ngày sau, Giàng ban cho họ trâu bò để làm lễ Khơi cúng ma hai nhà. Sau đó, đôi vợ chồng mới dám lên sàn và ngồi chung bếp lửa với Giàng.

Giàng thương đôi vợ chồng trẻ và một hôm, Ngài trao cho họ tám vắt cơm và một quả trứng gà cắt ra làm tám miếng. Ngài dặn:

– Nay ta phải đi xa tám ngày, tám đêm. Các con ở nhà giữ nhà cho ta. Mỗi ngày chỉ ăn một nắm cơm và một miếng trứng. Khi nào ăn hết, ta sẽ cho các con trở về mặt đất.

Nghe lời cha, hai vợ chồng người em út ở lại làm đúng mọi điều cha dặn. Sau khi ăn hết cơm, trứng, họ quay trở về bản cũ.

Về đến mặt đất, người em út ngỡ ngàng thấy nhà cửa mình đã trở nên rộng lớn, trâu đàn, lợn bầy nhung nhúc. Người em bối rối bảo vợ:

– Em ơi! Ta đi chưa trọn tuần trăng, nay quay về mà không nhận ra đường bản cũ.

Người vợ mỉm cười:

– Anh đang ở đúng nhà mình. Cơ nghiệp này là do cha mẹ giúp vợ chồng ta có được.

Người em út mừng vui vô hạn, từ đó hai vợ chồng sống no đủ, sung sướng.

Một tuần trăng sau, người anh trở về từ chuyến làm ăn xa, thấy ngôi nhà giàu có, liền nghĩ mình đã lạc vào bản khác. Đến chiều, sau khi dò từng bước, anh mới nhận ra nhà của em út. Người em út chạy ra đón anh vào nhà, kể hết sự tình may mắn của mình và bảo:

– Nay em đã có của cải nhiều. Anh em mình hết khổ rồi. Ta hãy sống chung để làm ra nhiều của cải hơn nữa. Vợ em sẽ lo cơm nước cho anh em ta.

Nhưng lòng tham của người anh trỗi dậy. Anh chỉ nghĩ đến việc tìm chiếc kèn khui của người em để cướp lấy. Khi thấy người em đi rẫy, anh lén lấy trộm chiếc kèn và chạy ra rừng.

Anh dựng một chiếc chòi tồi tàn giữa rừng, ngồi khóc nỉ non về số phận đói khổ của mình và thổi kèn. Tiếng kèn lại bay vút lên trời, đến tai Giàng. Thương xót, Giàng lại cho một người con gái khác xuống hỏi thăm. Người anh vồn vã đón và kéo cô gái vào làm vợ.

Chưa đầy một ngày, người anh đã giục vợ đưa mình lên gặp Giàng để xin của cải. Người vợ chiều lòng chồng và hai người lại bay lên trời.

Đến đầu bản của Giàng, người anh liền kéo vợ lên thẳng nhà của Giàng mà không cần giữ lễ. Giàng đón họ nhưng người anh chẳng hề để ý phép tắc, và khi vừa ngồi xuống chiếu, anh đã bị xô ngã dúi dụi. Mặc dù Giàng cảnh báo và dặn dò cẩn thận, nhưng người anh vẫn không chịu nghe, anh ta ăn hết cơm và trứng trước thời hạn và tự tiện phá phách nhà cửa.

Một ngày nọ, Giàng gọi vợ chồng người anh lên gặp và bảo:

– Giờ ta cho các con trở về nhà.

Nhưng lần này, thay vì trở về nhà, họ lại bị đưa đến một ngôi nhà tồi tàn, không một hạt lúa, củ khoai. Người vợ xấu hổ bỏ đi, còn người anh chỉ biết ngồi than khóc, tiếc nuối về số phận của mình. Thế là từ đó, anh ta không bao giờ tìm lại được hạnh phúc đã từng có. Còn người em út, nhờ đức tính thật thà, hiền lành, tiếp tục sống sung túc và hạnh phúc bên người vợ của mình, luôn nhớ về sự giúp đỡ của Giàng và dạy dỗ con cháu biết sống thật thà, nhân ái để được nhận phúc lành.

Khánh Vy

Một cô bé 3 tuổi rưỡi, thích nghe mẹ đọc truyện và hay khóc nhè :)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *